Đăng Ký Học
Ngày 16/04/2020 21:53:18, lượt xem: 2640
[Mỗi ngày một tác phẩm Văn học] Tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" - Nguyễn Minh Châu
1. Ý NGHĨA NHAN ĐỀ
“Chiếc thuyền ngoài xa” là một nhan đề mang tính biểu tượng, hé mở tình huống truyện, thể hiện chủ đề của tác phẩm. Nhan đề bao gồm đối tượng quan sát là “Chiếc thuyền”, cự li quan sát là “ngoài xa”, người quan sát là nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng. Cùng một người quan sát, cùng một đối tượng quan sát, nhưng ở các cự li khác nhau sẽ cho những kết quả khác nhau, dẫn đến nhận thức khác nhau. Chiếc thuyền ngoài xa xuất hiện trong truyện ngắn trước hết hướng người đọc về một hình ảnh tuyệt đẹp, đó là con thuyền thu lưới trong biển sớm mờ sương, nó toàn bích như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Vẻ đẹp ấy khiến cho người nghệ sỹ bối rối, xúc động, cảm thấy “khám phá thấy chân lí của cái toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nhưng khi con thuyền tới gần, phía sau vẻ đẹp toàn bích ấy là bao ngang trái, đau khổ, phũ phàng. Cuộc sống của những người dân chài bị giam cầm bởi đói nghèo tâm tối và bạo lực gia đình.
Vậy là qua mâu thuẫn giữa cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh với hiện thực phũ phàng của cuộc sống, nhà văn mang đến cho người đọc một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống con người: phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, tránh cái nhìn giản đơn, sơ lược, hời hợt, nhìn hình thức, phát hiện ra bản chất thực sự sau bề ngoài của sự vật, hiện tượng.
Nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” là một khái quát giản dị về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Nghệ thuật đích thực luôn gắn bó khăng khít với hiện thực cuộc sống, người nghệ sỹ phải có bản lĩnh trung thực để khám phá những hiện thực, dẫu là tàn nhẫn của cuộc sống con người. Nguyễn Minh Châu đã khẳng định về trách nhiệm của người nghệ sĩ: “Nhà văn không có quyền nhìn sự việc một cách đơn giản mà nhân vật cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”. Chỉ khi nào người nghệ sĩ có trách nhiệm trong cái nhìn hiện thực cuộc sống, có “mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người xung quanh” thì khi ấy tác phẩm nghệ thuật mới đạt được giá trị cao nhất. Ấy là “giá trị nhân đạo”.
“Chiếc thuyền ngoài xa” đã trở thành tấm ảnh đẹp treo ở nhiều nơi, nhất là ở trong các gia đình sành nghệ thuật, nhưng có ai hiểu được câu chuyện con người trên chiếc thuyền ấy. Chỉ có nghệ sĩ Phùng, mỗi khi ngắm nhìn tấm ảnh bao giờ cũng thấy”người đàn bàn ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”, một người đàn bà lam lũ, cam chịu, giàu tình thương và lòng vị tha. Đó cũng là thông điệp tác giả gửi tới người đọc: nghệ thuật luôn gắn liền với cuộc đời.
2. TÌNH HUỐNG TRUYỆN
Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tạo nên những tình huống truyện khá độc đáo, tạo cho người đọc sự suy nghĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.
Sự thành công của một truyện ngắn hay mội cuốn tiểu thuyết phần lớn do nghệ thuật tạo ra tình huống truyện của tác giả. Sự thành công của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn “Chiếc truyền ngoài xa" cũng không ngoài điều đó. Vậy muốn phân tích nghệ thuật tạo nên tình huống truyện trong truyện ngắn này trước tiên L phải hiểu lình huống iruyện là gì? Tình huống truyện là hoàn cảnh riêng (thời gian, không gian; sự việc diễn ra trong thời gian, không gian đó ...) được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ rõ nét nhất. Đối với truyện ngắn, tình huống giữ một vai trò rất quan trọng của truyện, là hạt nhân của cấu trúc thể loại
Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo: Anh phóng viên Phùng đang làm công việc đi săn ảnh nghệ thuật và phong cảnh để làm lịch. Một buổi sáng sớm anh đi trên bãi hiển, anh bỗng phát hiện ra một bức tranh tuyệt tác của thiên nhiên, đó hình ảnh một chiếc thuyền ngoài xa thấp thoáng trong màng sương sớm, lúc ẩn lúc hiện. Cảnh vật hiện lên trước mặt anh phóng viên Phùng là “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe” bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào “Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích" đã khiến Phùng bối rối và trong trái tim Phùng “như có gì bóp thắt vào", và trong cái giây phút bối rối ấy Phùng "tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái không khí trong ngần của tâm hồn". Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đã mang lại “khoảnh khắc hạnh phúc tràm ngập tâm hồn Phùng” và Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào trong ống kính của mình.
Thế nhưng, khi chiếc thuyền vào tới bờ thì một sự thật trần trụi phơi bày trước Phùng, một sự thực bi thương, đó là hình ảnh những con người lao động nghèo khổ, xơ xác, như không hề có chút niềm vui, hạnh phúc nào cả. Phùng nghe tiếng anh hàng chài quát vợ "Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tạo giết cả mày đi bây giờ” rồi nhìn cảnh anh hàng chài “mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa... quật tới tấp vào lưng người đàn bà, hắn vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!"trong khi đỏ thì người đàn bà nhẫn nhục cam chịu tất cả những sự việc ấy diễn ra làm cho Phùng “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn...". Điều làm cho Phùng càng kinh ngạc sững sờ hơn khi nhìn cảnh thằng Phác lao vun vút đến chỗ bố nó, giằng lấy cái thắt lưng trong tay bố nó “liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vờ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên" của bố nó để bảo vệ mẹ nó. Tình huống truyện này đã đưa ra những vấn đề đầy nghịch lí, nghịch lí giữa cái đẹp của nghệ thuật với sự trần trụi, bi đát của cuộc sống hiện thực. Nghịch lí giữa người vợ tốt bị hành hạ nhưng vẫn không bỏ chồng, nghịch lí giữa sự vũ phu tàn bạo của anh hàng chài với vợ nhưng không bỏ vợ. Với tình huống của truyện, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đặt ra một vấn đề rất quan trọng để người đọc suy nghĩ, đó là mối quan hệ giữa văn chương, nghệ thuật với cuộc sống. Nghệ thụật là một cái gì xa vời như chiếc thuyền ngoài xa trong màng sương sớm mờ ảo, còn cuộc sống thì rất cần như con thuyền khi đã vào tới bờ. Hay nói một cách khác, Nguyễn Minh Châu cho rằng nghệ thuật trước hết phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh chân thật cuộc sống và góp phần cải tạo cuộc sống, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
3. NHÂN VẬT PHÙNG VÀ 2 PHÁT HIỆN ĐỐI LẬP
– Câu chuyện bắt đầu từ một tình huống truyện độc đáo, người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trở về chiến trường xưa để chụp bức tranh cảnh biển theo đề nghị của trưởng phòng. Ở đó, người nghệ sĩ đã phát hiện ra bức tranh “cảnh đắt trời cho” nhưng đằng sau bức tranh ấy là cả một sự thật nghiệt ngã.
a. Phát hiện thứ nhất của người nghệ sĩ là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp:
– Suốt một tuần liền “phục kích” nay Phùng mới có dịp thu vào ống kính hết một phần tư cuộn phim với cảnh đẹp mà suốt đời cầm máy Phùng chưa bao giờ có được. Đó là hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa được ví với “một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ”. Cái đẹp trước mắt Phùng là cái đẹp hài hòa đến tuyệt diệu: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Cảnh và người ở đây thật đúng như yêu cầu trưởng phòng : “phải là tĩnh vật”.
Cảnh đẹp và toàn bích đến độ làm cho Phùng cảm thấy “Đứng trước nó tôi trở nên bối rối” và “Trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Cảm xúc ấy của Phùng chính là sự thăng hoa của tâm hồn, thăng hoa của nghệ thuật.
b. Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí của người nghệ sĩ nhiếp ảnh sau bức tranh cảnh biển là:
+ Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến, từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để giải toả những bất hạnh, khổ đau… “Chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két…”. Nhưng kỳ lạ thay, dù bị đánh đập tàn nhẫn, người đàn bà vẫn cam chịu “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống.
+ Mới đầu chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ và người vợ nhẫn nhục chịu đựng, Phùng hết sức “kinh ngạc”, anh “há mồm ra mà nhìn”. Rồi như một phản xạ tự nhiên Phùng “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Nhưng đúng lúc đó thì thằng Phác, đứa con người đàn bà đã chạy nhào tới. Phùng lại tiếp tục chứng kiến cảnh tượng đau lòng hơn. Thằng Phác vì thương mẹ mà đã giật cái thắt lưng trên tay của bố nó rồi “vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực” của người cha độc ác. Nhưng hành động của nó đã bị người đàn ông “dang thẳng cánh tay tát cho thằng bé hai cái tát như trời giáng”. Người đàn ông bỏ đi về phía thuyền. Người mẹ ôm lấy đứa con, thằng Phác đưa bàn tay lau nước mắt cho mẹ đọng lại trong những nốt rỗ chằng chịt. Rồi người đàn bà cũng vội vã trở lại thuyền. Bãi cát lại trở về hoang vắng. Chiếc thuyền ngoài xa biến mất như một câu chuyện cổ quái đản.
c. Ý nghĩa của hai phát hiện ấy: Nhà văn đã tạo ra tình huống truyện độc đáo có ý nghĩa khám phá phát hiện đời sống. Qua hai phát hiện của người nghệ sĩ, nhà văn chỉ ra: cuộc đời chứa đựng nhiều nghịch lí, mâu thuẫn; không thể đánh giá con người, cuộc sống ở dáng vẻ bề ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong. Nhà văn không thể có cái nhìn dễ dãi trước cuộc sống mà phải biết nhìn thấu được bản chất bên trong của cuộc sống. Đó mới là nghệ sĩ chân chính.
4. NHÂN VẬT NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀI
Câu chuyện của của người đàn bà ở toà án huyện đã mở ra chiều sâu triết lý của tác phẩm. Đó là câu chuyện về cuộc đời nhiều bí ẩn và éo le của một người đàn bà hàng chài nghèo khổ, lam lũ…
a. Lúc mới đến tòa án:
Được tòa mời lên để giải quyết việc gia đình, người đàn bà đã có mặt ở tòa án, nơi chánh án Đẩu (bạn thân của Phùng) làm việc. Khác với vẻ cam chịu ở bãi biển. Lần này chị ta rất “lúng túng, sợ sệt”. Xưng hô “con” gọi Đẩu là “Quý tòa”. Chị van xin “Quý tòa bắt tội con cũng được, bỏ tù con cũng được . Nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Chị thà chấp nhận mọi hình phạt của pháp luật, kể cả khung hình phạt cao nhất là đi ở tù nhưng dứt khoát không chịu bỏ chồng. Điều này khiến cho Phùng và Đẩu ngạc nhiên, không hiểu nổi. Sau đó chị đột ngột đổi cách xưng hô, xưng “chị” và gọi Phùng, Đẩu là “các chú”. Cách thay đổi xưng hô này cũng là một ẩn ý của nhà văn.
b. Rồi người đàn bà kể lại câu chuyện cuộc đời mình:
+ “Hồi nhỏ tôi đã là một đứa con gái xấu xí, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa”. Nhà chị cũng rất là khá giả nhưng vì “xấu nên không ai lấy”. Sau đó trót có mang với anh hàng chài vẫn đến nhà chị mua bả về đan lưới. Chị cũng rất tự hào về lão chồng: “Lão chồng tôi khi ấy là một anh thanh niên, hiền lành nhưng cộc tính. Chẳng bao giờ đánh đập tôi”. Nghĩa là chị không hề oán trách người chồng ấy, trong mắt chị hắn ta là một nạn nhân của đói nghèo và thất học. Rồi như nhìn thấu nguyên nhân của nỗi khổ, chị tự nhận lỗi về mình, khổ là vì mình đẻ nhiều, thuyền chật, con đông, nhiều lần biển động, cả nhà phải ăn cả “xương rồng luộc chấm muối”.
+ Chị kể tiếp câu chuyện cuộc đời mình: mỗi lần “thấy khổ quá là lão lại xách tôi ra đánh”. Tội nghiệp thay cho chị là nếu đàn ông ở thuyền biết uống rượu thì lão chồng của chị lại không biết uống rượu. Vì vậy, đánh vợ là phương thức duy nhất để giải tỏa những căng thẳng của lão. Sau này con chị lớn, vì không muốn để con thấy cảnh bạo hành. Chị xin lão chồng “có đánh thì đưa tôi lên bờ mà đánh”. Cũng vì thương con mà chị đã gửi thằng Phác lên rừng ở với ông ngoại nó. Vì ai dám chắc rằng, thằng Phác lớn lên sẽ không giống bố nó.
+ Kể đến đây cả Phùng và Đẩu đều thốt lên: “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”. Thấy thế, người đàn bà giải thích : “Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Rồi để cho Phùng và Đẩu hiểu hơn chị tiếp tục giải thích : “Đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhỏ nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Chị cũng mạnh dạn nói về thiên chức của người đàn bà tuy có phần lạc hậu nhưng lại thấm đẫm đức hi sinh: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Rồi lần thứ hai chị tha thiết van xin “Các chú đừng bắt tôi bỏ nó”.
+ Như vậy, câu chuyện của người đàn bà làng chài ở tòa án huyện đã mang đến cho người đọc, cho cả Phùng và Đẩu vỡ lẽ ra nhiều điều. Ẩn sau dáng vẻ thất học, lam lũ kia lại là người đàn bà thấu hiểu lẽ đời và giàu lòng vị tha, bao dung, đức hi sinh cao thượng. Chị là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam tươi đẹp vô ngần.
c. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện mang đến bài học sâu sắc:
– Với chánh án Đẩu: anh có lòng tốt, sẵn sàng bảo vê ̣công lý nhưng anh chưa thưc̣ sư ̣ đi sâu vào đời sống nhân dân. Lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ. Luâṭ pháp là cần thiết nhưng cần phải đi sâu vào đời sống. Cả lòng tốt và luâṭ pháp đều phải đăṭ vào hoàn cảnh cu ̣thể.
– Với nghệ sĩ Phùng: Phùng tư ̣ nhâṇ ra mình còn đơn giản khi nhìn nhâṇ cuôc̣ đời và con người. Qua câu chuyện, nhân vật Phùng – người nghệ sĩ – đã có sự nhận thức lại về giá trị của con người và đời sống.
Qua câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài và cách ứng xử của các nhân vật, nhà văn muốn gửi đến người đọc thông điệp: đừng nhìn cuộc đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh giá sự việc, hiện tượng trong các mối quan hệ đa diện, nhiều chiều.
Tin liên quan